Welcome to Một Góc Phố - Chúc các Bạn mọi chuyện vui vẻ & như ý ...
Page 1 of 6 123456 LastLast
Results 1 to 10 of 60

Thread: CHÚA NHẬT LỄ CHÚA HIỂN LINH

  1. #1
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Thumbs up CHÚA NHẬT LỄ CHÚA HIỂN LINH


    CHÚA HIỂN LINH (Is 60, 1-6; Ep 3, 2-3a. 5-6; Mt 2, 1-12)








    Nơi mỗi người ít nhiều cũng có những tâm tình tôn giáo.

    Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận Thiên Chúa là Đấng tối cao trong lòng họ.

    Phần mình, người tín hữu cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa qua thiên nhiên diệu kỳ, qua dòng lịch sử nhân loại và tôn giáo, và nhất là qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.

    I. QUA THIÊN NHIÊN

    Thánh Mátthêu đề cập đến ánh sáng của Thiên Chúa đã bừng lên qua hiện tượng ánh sao. “Chúng tôi thấy ngôi sao của Người xuất hiện” (Mt 2, 2).

    Theo ánh sao chỉ dẫn, các nhà chiêm tinh đã lên đường tìm kiếm Đức Vua của dân Do Thái. Rất có thể, ba nhà chiêm tinh chưa hình dung ra ngôi vị Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giê-su. Có chăng, họ mới mường tượng về một vị vua mới ra đời và họ phải đến triều bái theo nghi thức ngoại giao. Nhưng dù sao, sự hiện diện của ba nhà chiêm tinh bên máng cỏ Bê-lem cũng đủ nói lên phép ứng cử ngay lành và thiện chí khát khao kiếm tìm chân lý và sự thật nơi các ngài.

    Thiên Chúa đã dùng hiện tượng thiên nhiên (ánh sao), đã dùng ngôn ngữ, cách sử thế của con người (vị vua) để từng bước tiệm tiến mạc khải về Người cho nhân loại.

    Đời người được tiếp xúc với môi trường thiên nhiên: ánh bình tỏa rạng báo hiệu một ngày mới, mặt trời lên chiếu sáng và mang lại hơi ấm, ánh trăng soi tạo cảnh sắc cho đêm, ngọn gió mát thổi đến mang lại hơi thở cho sự sống làm thanh thỏa lòng người, hạt mưa rơi làm phát sinh mầm sống mới…Tất cả những hiện tượng thiên nhiên ấy như đang nhắc nhở cho con người ý thức về bàn tay quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.

    Tiếc rằng, đang hưởng thụ hồng ân Chúa qua thiên nhiên nhưng không ít người lại tỏ ra vô ơn phủ nhận Thiên Chúa. Xem ra, những gì hưởng thụ miễn phí thì người lại không biết trân trọng nguồn gốc.

    Mong sao, mỗi hiện tượng thiên nhiên đều là một câu hỏi để người ta tìm về cội nguồn sự sống. Xa hơn nữa, họ tìm về Đấng Tạo Hóa. Về điều này, người tín hữu phải nêu gương trước tiên với những khắc khoải gặp gỡ Ngôi Lời Nhập Thể. Lịch sử là những ghi nhận diễn biến tôn giáo nơi con người.

    II. LỊCH SỬ

    Kể từ ngày thảm họa tội lỗi làm mất đi vẻ đẹp nguyên tuyền Thiên Chúa ban cho con người, dân Chúa rơi vào cảnh lầm than “bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân” (Is 60, 2).

    Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn dõi theo con người và không để họ rơi vào vô vọng. Khi tình thương đã đến đỉnh điểm, Thiên Chúa cho bừng lên ánh sáng, vinh quang của Người “như bình minh chiếu tỏa” (Is 60, 1) chiếu soi lòng người.

    Ngày ấy, để gặp gỡ Thiên Chúa, dân Chúa đi về phía ánh sáng, vua chúa trần gian phải hướng về ánh bình minh (x Is 60, 3). Từ muôn nơi, con trai, con gái của Thiên Chúa quy tụ loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa, cùng làm nên một cộng đoàn dân thánh: mặt mày rạng rỡ, lòng dạ hớn hở tưng bừng…

    Ánh sáng bừng lên, bình mình đã ló dạng, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử loài người nhưng trong thực tế rất nhiều người vẫn còn thơ ơ lãnh đạm, thậm chí khước từ Người. Ước mong sao, người tín hữu cảm nhận được ánh sáng chúa đang chiếu soi tâm hồn của họ, cảm nhận được ánh bình minh của Chúa đang là những tia sáng hy vọng hướng dẫn cuộc đời họ, trở nên dấu chứng niềm tin cho nhân loại.

    III. NGÔI LỜI NHẬP THỂ

    Lịch sử cứu độ là cả một lịch sử khát khao Đấng Cứu Thế. Vậy mà Cứu Thế đã đến nhà mình nhưng người nhà không đón nhận (x.Ga 1,10-14). Sao thế?

    - Sự cực đoan nơi con người: Khi nghe các nhà chiêm tinh nói về vị vua dân Do Thái ra đời, vua Hê-rô-đê đã cho triệu tập các kinh sư và các thượng tế để trao đổi. Về lý thuyết, tất cả họ đều biết rất rõ Vị Lãnh Tụ chăn dắt It-ra-en sẽ ra đời tại Bê-lem. Trong lòng tin, thì Vị Lãnh Tụ này không khớp kinh nghiệm của họ nên họ khó chấp nhận một sự tương phản. Bê-lem nhỏ bé không thể sánh với Giê-ru-sa-lem. Bê-lem không thể là nơi sinh ra của một vị vua được.

    Sự tự phụ nơi con người: Về kiến thức tôn giáo, những kinh sư và những thượng tế là những người thông thái, là những bậc thầy trong dân Do Thái, nhưng về lòng tin thì xem ra họ mới chỉ biết một mớ lý thuyết chứ chưa hề biết về Thiên Chúa nhập thể làm người. Thế mới hay, sự duy lý đã khóa chặt con người trước mạc khải của Thiên Chúa: người có đạo chưa chắc đã có Chúa; người có Chúa rồi sẽ có đạo..

    - Lòng gian ác: Thông tin về một vị vua Do Thái ra đời đã làm cho vua Hê-rô-đê run sợ về sự an nguy ngai vàng của ông. Từ đó, mọi sự tiếp đón của ông đối với những nhà chiêm chiêm tinh chỉ là trò giả hình, gài bẫy, mưu đồ giết hại Hài Nhi Giê-su; bằng chứng là sau đó ông đã hạ lệnh giết sách các hài nhi từ hai tuổi trở xuống. Rõ ràng lòng dạ độc ác của con người đã ngăn lối họ đến với Thiên Chúa.

    Chúa đã đi vào trần gian và mang tên Giê-su nhưng sự cực đoan, tự phụ và lòng gian ác đã khép kín tâm hồn người ta, ngăn bước họ đến với Chúa. Thánh Phao-lô kinh nghiệm Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải mầu nhiệm: “Trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người DoThái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Chúa hứa” (Ep 3, 5).

    Như thế, nhờ Chúa Thánh Thần Thiên Chúa đã tỏ mình nơi Đức Kitô. Trong Đức Kitô, muôn dân được hiệp nhất. Ước mong người tìn hữu mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, xin Người dẫn đến Chúa Giê-su. Nơi Chúa Giê-su, tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ bày.

    KẾT

    Thiên Chúa đã đến trần gian và từng buớc tiệm tiến tỏ mình cho nhân loại qua lịch sử, qua thiên nhiên, nhất là qua Ngôi Lời Nhập Thể.

    Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng đã tôn trọng sự tự do nơi con người và con người đã sử dụng tự do để thuận theo hoặc khước từ Người.

    Cách riêng người tín hữu sẽ chọn lựa đi về phía ánh sáng để thờ lạy Chúa là chân lý và sự thật. Tin vui cứu độ phải được loan báo cho toàn dân.
    Lm. JB Nguyễn Minh Phương, CSsR
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  2. #2
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH

    CÂU CHUYỆN LỄ HIỂN LINH



    Thật ra không phải đợi đến hôm nay mới mừng Chúa Hiển Linh. Đêm Giáng Sinh, ta đã mừng Chúa Hiển Linh rồi: hiển linh cho chính cha mẹ Ngài, hiển linh cho những người chăn chiên ở ngoài đồng Bê-lem. Hôm nay, Chúa hiển linh cho các đạo sĩ – là những người đến từ xa, rất xa. Và Chúa còn tiếp tục hiển linh, ít là theo truyền thống Giáo Hội Đông Phương vẫn gán cách riêng ý nghĩa ‘hiển linh’ cho cả biến cố Chúa chịu Phép Rửa và biến cố ‘nước hóa rượu’ ở tiệc cưới Ca-na nữa.

    Câu chuyện về các nhà đạo sĩ hôm nay là một câu chuyện rất lạ!

    Rất lạ, vì các ông ở tận bên đông phương, các ông không thuộc dân Chúa chọn, không biết truyền thống Lời Hứa, không Lề Luật, không Thánh Kinh..., thế mà các ông đã đi tìm và gặp được Chúa. Đúng người. Đúng nơi. Và đúng lúc.

    Rất lạ, vì các ông rong ruổi hành trình chỉ bám vào một ánh sao. Mà ngôi sao ấy ở đâu vậy? Nó ở trên trời! Vâng, nó không thể ở trong túi áo hay trong va li hành lý của các ông; nó cũng không thể gắn trên lưng lạc đà (như chiếc đồng hồ định vị gắn trên ô-tô ngày nay) để cho các ông có thể độc quyền. Ngôi sao ở trên trời, nhưng chỉ các ông thấy, còn bao người khác thì không thấy!

    Rất lạ, vì những người được trang bị ‘tận răng’ như Hê-rô-đê và giới lãnh đạo Do Thái, kể cả nhóm Biệt Phái, Sa-đốc, và các kinh sư – có lịch sử Giao Ước, có Lề Luật, có Thánh Kinh, có Đền Thờ, có phụng vụ – nhưng chẳng hay biết gì và đã bắt hụt Đấng của Lời Hứa.

    Song đó cũng là một câu chuyện rất quen, vì đó vốn là ‘kiểu’ của Chúa. ‘Kiểu’ của Chúa, đó là những người tưởng ‘ngon lành’ hóa ra ‘trớt quớt’, và những kẻ tưởng chừng ‘trớt quớt’ lại hóa ra ‘ngon lành’!

    “Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn... Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.” (1Sm 2,4-8)

    ‘Kiểu’ của Chúa, đó là cụ bà Sa-ra héo úa vẫn mang thai và sinh được đứa con trai mang tên “tiếng cười.” Đó là chú em Gia-cóp thừa kế Lời Hứa chứ không phải ông anh Ê-sau. Đó là Giu-se bị vứt bỏ lại trở thành ‘phao cứu nạn’ cho cả gia đình. Đó là thằng út Đa-vít mỏng mảnh yếu ớt được chọn chứ không phải các ông anh vai u thịt bắp của nó. ‘Kiểu’ của Chúa, đó là bà Ê-li-sa-bét son sẻ trở thành mẹ của vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Đó là cô thôn nữ Maria rất vô danh lẩn khuất, rất âm thầm khiêm hạ lại trở thành “có phúc nhất giữa các phụ nữ” vì được chọn làm Mẹ của Con Chúa Trời.

    “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
    từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
    Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn!
    Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
    Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
    Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
    Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
    người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lc 1,48-53)

    ‘Kiểu’ của Chúa, đó là chính Con Thiên Chúa đã làm người trong hình hài một đứa trẻ nghèo hèn – nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi... Người “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,7-8)

    ‘Kiểu’ của Chúa, đó là tất cả công cuộc sứ mạng của Chúa được đặt vào tay một nhóm môn đệ ‘tài ít tật nhiều’ với thành phần xuất thân tối om om. Hình như Chúa thích nhặt rác, và tái chế rác để làm ra vàng. Hình như Chúa thích làm ‘fan’ của đội yếu, chứ không ủng hộ đội bóng ‘rừng sao’! Hình như một thông điệp Chúa vẫn muốn nhắc đi nhắc lại từ xa xưa, dọc theo suốt dòng lịch sử, cho tới hôm nay, và Ngài sẽ còn tiếp tục nhắc mãi, đó là: Đừng tưởng bở!

    Đừng tưởng bở. Đừng tưởng mạnh là ngon và yếu là dở.
    Ở đây, chợt nhớ một luận đề luân lý của Cha James F. Keenan, S.J. trong quyển Moral Wisdom. Nhà thần học luân lý người Mỹ này chỉ ra rằng không phải ta phạm tội vì ta yếu đâu, mà vì ta mạnh. Mọi trình thuật trong Tin Mừng về tội lỗi đều làm chứng rằng người ta phạm tội vì họ mạnh chứ không phải vì họ yếu.

    Khi người thu thuế và người Pharisêu cầu nguyện trong đền thờ, tội của người Pharisêu nằm ở chỗ ông ta mạnh, ông ta rất ý thức những gì ông có (Lc 18,9-14). Khi người phú hộ dửng dưng đối với anh Ladarô đói rách trước cửa nhà, tội của ông không nằm ở chỗ ông yếu mà ở chỗ ông mạnh; ông có thể làm điều gì đó, thế nhưng ông đã không làm (Lc 16,19-31). Người đầy tớ được tha món nợ lớn nhưng đã không tha cho bạn mình món nợ nhỏ hơn nhiều, anh ta phạm tội chính từ cái thế mạnh chứ không phải từ cái thế yếu của mình (Mt 18,21-35). Hay như trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, tội nằm ở đâu? Ngay cả tội của những tên cướp cũng không phải là tiêu điểm được ‘soi’ ở đây, mà chính là tội của người Lê-vi và thầy tư tế. Họ có thể làm điều gì đó, nhưng đã không làm; và vì thế họ phạm tội từ thế mạnh của mình (Lc 10,25-37). Trong cảnh Phán Xét Chung cũng vậy, chiên và dê được phân ra tùy theo khả năng đã có thể làm những điều gì đó và đã thực sự làm hay không (Mt 25,31-46).

    Từ những ghi nhận căn bản ấy, Cha Keenan, trong quyển sách nói trên, đã không tiếp cận luân lý qua ngả tự do hay sự thật theo cách thường tình, mà ngài chọn tiếp cận qua ngả tình yêu. Người ta phạm tội vì người ta mạnh mà người ta không yêu thương, không có khát vọng hướng thiện, hành thiện!

    Trở lại với câu chuyện ‘hiển linh’ hôm nay, ta thấy Hêrôđê và những người Do Thái ở thế mạnh, vì có hầu như đủ mọi phương tiện (để tìm gặp Chúa) – nhưng lại thiếu một cái gì đó... Còn các nhà đạo sĩ ở thế yếu, vì hầu như chẳng có manh mối nào (để tìm gặp Chúa) – song các ông lại có một cái gì đó... Sự khác biệt nằm ở chỗ có hay không có KHÁT VỌNG, hay TẤM LÒNG, hay TÌNH YÊU!

    Sự việc càng tệ hại hơn, khi người ta không có khát vọng hướng thiện, hướng thiên, mà thay vào đó là tham vọng và ích kỷ. Người ta sẽ dùng các phương tiện Chúa ban cho, tức thế mạnh của mình, không phải để tìm và gặp Chúa mà là để tìm và diệt Chúa. Đây chính là điều Hê-rô-đê đã làm.

    Bài học từ câu chuyện Lễ Hiển Linh vẫn còn nóng hổi cho chúng ta, cho tôi, hôm nay! Chúng ta có những thế mạnh, những phương tiện để tìm gặp Chúa? Hãy tạ ơn Chúa, nhưng cũng. .. đừng tưởng bở!

    Lm. Lê Công Đức
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  3. #3
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH


    Ánh nến toả sáng trong gia đình



    (Suy niệm Tin Mừng Mat-thêu (2, 1-12) trong Lễ Hiển Linh)

    Giữa ban ngày, chỉ cần một tấm bảng nhỏ vẽ mũi tên chỉ đường cũng đủ để giúp bộ hành tìm được hướng đi, nhưng giữa đêm đen, dù có cả một rặng núi sừng sững được sử dụng như tín hiệu chỉ đường, cũng không ai nhận thấy. Trong khi đó, chỉ cần một ánh sáng le lói giữa màn đêm cũng đủ để cho khách bộ hành tìm thấy mục tiêu cần tiến đến. Trong đêm tối, một đốm sáng nhỏ có khả năng dẫn đường chỉ lối hơn cả một ngọn núi cao.

    Chính vì thế, khi Chúa Giê-su sinh ra tại Bê-lem, Thiên Chúa đã cho xuất hiện một ánh sao đặc biệt giữa bầu trời đêm để soi dẫn cho ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến gặp Chúa Cứu Thế. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ nầy, ba nhà chiêm tinh mới có thể tìm gặp Hài Nhi Giê-su mới hạ sinh.

    Đoạn Tin Mừng Mat-thêu (2, 1-12) trích đọc trong phụng vụ lễ hiển linh mời gọi chúng ta trở thành những ngôi sao nhỏ để dẫn đưa anh chị em lương dân đến với Chúa. Nói cách khác, Lời Chúa mời gọi chúng ta làm ánh sáng chỉ đường cho lương dân.

    Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sa-i-a mà phán dạy dân Người: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất.” (Is 49,6)

    Chúa Giê-su cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ…” (Mt 5, 14):

    Và Thánh Phao-lô tiếp tục kêu mời chúng ta: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)

    Ít ra, xin được là ánh nến toả sáng trong gia đình

    Trở nên ánh sáng soi đường là một sứ mạng tuy cao trọng nhưng đầy khó khăn nên không ai muốn đảm nhận. Tuy vậy, là con cái Chúa, không ai được quyền thoái thác chối từ. Mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Éliot sẽ khích lệ chúng ta:

    “Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng giữa trời,

    Thì hãy là ánh lửa non cao.

    Nếu bạn không thể là ánh lửa non cao,

    Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình.”

    Có lẽ chúng ta không dám làm ngôi sao sáng giữa trời, vì thấy mình yếu đuối và tội lỗi. Có thể chúng ta cũng chẳng dám mơ ước trở thành một ánh lửa non cao cho nhiều người từ phương xa nhìn tới. Vậy thì ít ra, xin cho mỗi người chúng ta cố sức trở thành một ánh nến toả sáng trong gia đình. Ánh nến nầy rất quan trọng vì ‘gần mực thì đen và gần đèn ắt phải sáng.’ Ánh sáng của cuộc đời mẫu mực nơi người cha, người mẹ toả chiếu trên con cái chắc chắn sẽ làm cho con cái được nên người. Và ngay cả ánh sáng của con cái cũng có thể làm cho cha mẹ nên sáng.

    Sự kiện sau đây minh chứng điều nầy:

    Ngày 12 tháng 12 năm 1999, tôi ban bí tích rửa tội cho hai em nhỏ. Người chị là Têrêxa Huỳnh thị Bích Hằng, mười lăm tuổi, còn người em là Maria Huỳnh thị Bích Nga, mười hai tuổi. Vì hai em mồ côi cha mẹ sớm, chẳng được học hành, nên được gia đình người cô ruột thương tình đem về nuôi.

    Điều oái oăm là cô dượng của hai em tuy là người có đạo nhưng không mấy khi bước đến nhà thờ. Mỗi tối, gia đình nầy bán phở đến 12 giờ đêm. Hai người cháu cũng lo phục dịch đến giờ ấy.

    Thế rồi từ ngày hai cháu được dẫn đến nhà thờ, được các nữ tu dạy cho biết Chúa và giáo lý, hai cháu bỗng nhiên yêu mến Chúa cách nhiệt tình và yêu thích học giáo lý cách đặc biệt. Cứ mỗi ngày chúa nhật, hai cháu cảm thấy mừng vui rộn rã trong lòng vì được đến với Chúa. Lòng nhiệt thành của hai cháu đã làm bừng lên nhúm đức tin như tro tàn nguội lạnh trong lòng cô dượng. Thế rồi Cô Dượng cũng sốt sắng đi thờ phượng Chúa trong các ngày chúa nhật, sau khi đã vắng bóng ở nhà thờ gần đến mười năm! Người cô nói với tôi: “Thấy hai cháu sốt sắng quá, thét rồi hai vợ chồng con cũng sốt sắng lây.”

    Hai cháu đúng là hai ánh nến nhỏ trong gia đình đã chiếu soi cho Cô Dượng.

    Vậy giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa Giê-su bằng lời thơ của thi sĩ Éliot:

    “Lạy Chúa, nếu con không thể là ngôi sao sáng giữa trời,

    Thì xin hãy là ánh lửa non cao.

    Và nếu con không thể là ánh lửa non cao,

    Xin cho con được làm ánh nến toả sáng trong gia đình.”
    LM. Inhaxio Trần Ngà
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  4. #4
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH



    Hiển linh giữa đời thường







    Sự kiện Hiển Linh có một ý nghĩa quan trọng đối với nhân loại hôm nay. Mừng lễ Hiển Linh, chúng ta được mời gọi tiếp bước các nhà “hiền sỹ” xưa trên hành trình nhận diện và sống hồng ân cứu độ.

    1. Lời mời gọi lên đường

    Khi nhận thấy ánh sáng của “sao lạ”, như một động lực vô hình thúc đẩy, các nhà “chiêm tinh” đã lập tức lên đường. Với các ông, đây là một hành trình kỳ vị, không đơn thuần là chuyến chinh phục cho một khám phá trong lĩnh vực thiên văn; mà hơn thế nữa, đây là một sự đáp trả trước lời mời gọi của chính Đấng là Sự Sáng không bao giờ tàn lụi: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2, 2b).

    Nhân loại hôm nay cũng đang được Thiên Chúa mời gọi lên đường để tái khám phá các giá trị của đời sống tâm linh. Ở đó mỗi người mới có thể tìm gặp chính cội nguồn hạnh phúc mà bấy lâu họ vẫn kiếm tìm. Vấn đề là chúng ta có thái độ nào trước lời mời gọi ấy.

    Phải chăng chúng ta vẫn cố thủ trong thực tại cuộc sống vật chất đang bị vây bọc bởi thế giới ảo của “ông thần” khoa học – công nghệ hiện đại. Sẽ là sai lầm nếu ai trong chúng ta vẫn coi nó là mục đích của đời mình. Để có thể dấn bước trên con đường do chính Ngôi Hai Nhập Thể đã mở ra, chúng ta cần sáng suốt nhận diện những hạn chế của nền văn minh hiện đại, từ đó biết hướng tâm lên Đấng Tuyệt Đối và thực thi thánh ý Ngài trong đời sống thường ngày.

    2. Đối diện với thử thách

    Cuộc viễn chinh theo ánh sao lạ cho thấy tinh thần quả cảm, dám đối diện với thử thách của các nhà “đạo sỹ”. Đây chính là thử thách của niềm tin. Chính bản lĩnh và niềm tin vào lời đã được ghi trong sách xưa, họ đã vượt qua những dao động, nghi ngờ và cả những đe doạ trên hành trình tìm gặp Hài Nhi Giêsu.

    Hôm nay, chúng ta cũng đang phải đối diện với bao thử thách trong hành trình Đức tin. Có nhiều thứ “ánh sáng” giả tạo đang lôi kéo làm ta lung lạc và có nguy cơ mất Đức tin. Đó là “ánh sáng” của tiền tài, danh vọng, học thuyết, thông tin bóp méo sự thật…, và cả bạo lực đang đe doạ tiêu diệt Đức tin của chúng ta.

    Với niềm xác tín vào chính Đấng đã kêu mời và không ngừng đồng hành cùng nhân loại, mỗi người chúng ta hãy đặt niềm tin nơi Ngài, và nhờ Ngài nâng đỡ, tiếp sức cho ta vượt qua những “cửa ải Hêrôđê” đầy rẫy trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta biết can đảm và nỗ lực vượt qua những cạm bẫy của vật chất, các luồng tư tưởng, và cả những nghi ngờ hàm ẩn trong ta.

    3. Gặp Chúa qua những dấu chỉ

    Giữa trăm ngàn thử thách của đời sống, nhất là trong hành trình Đức tin, Thiên Chúa vẫn mời gọi ta gặp gỡ Ngài qua những dấu chỉ. Nguồn sáng dẫn lối đưa đường cho chúng ta hôm nay không còn là thứ ánh sáng đến từ một vì sao tít mờ xa xăm. “Ánh sáng” này được phát xuất từ những mối tương quan nhân vị và các sự kiện trong đời sống thường nhật của chúng ta. Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng trần và làm một con người thực giữa nhân loại; Ngài muốn chúng ta nhận ra Ngài từ những con người là chính đối tượng được Ngài cứu độ. Đó phải là một quá trình sống tương giao liên đới của mỗi chúng ta.

    Ta có thể nhận ra quyền năng vô biên của Thiên Chúa trước những thất bại và bất lực của nền khoa học hiện đại. Ta có thể nhìn nhận sức mạnh của Tinh Yêu theo Tin Mừng mới có thể cảm hoá và giải trừ những căng thẳng, xung đột do chính trị, sắc tộc hiện nay. Gần hơn, ta có thể nhận ra Ánh Sáng của Đức KiTô qua lời và hành động bênh vực của những cá nhân, tổ chức hay một nhóm người nào đó cho Sự Thật – Công Lý. Ta có thể nghe được tiếng gào khóc, kêu cứu của những “Hài Nhi Giêsu” trước bất công, gian dối, bạo lực…

    Như các “hiền sỹ” xưa, chúng ta biết nhận ra Chúa qua những dấu chỉ của cuộc sống và nơi những người xung quanh. Một khi đã nhận ra, chúng ta cần sẵn sàng trao ban bằng chính cuộc sống của mình.

    “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương, và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2, 11).

    Hôm nay, chúng ta cần những “tấm lòng vàng” để trao tặng những nghĩa cử đẹp, để xoa dịu những nỗi đau, và để vực dậy biết bao kiếp đời là hiện thân của Hài Nhi Giêsu. Chúng ta cần một thái độ khiêm tốn phục để “dâng tiến” cho đời con tim yêu thương của chính Đấng đã vì yêu mà đến tìm gặp và cứu độ chúng ta. Đây chính là cuộc Hiển Linh ý nghĩa và kỳ diệu nhất.
    JB. Nguyễn Quốc Tuấn
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  5. #5
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH


    SỨ MỆNH LÊN ĐƯỜNG








    Ngẩng đầu nhìn bầu trời, thấy ánh sáng lạ, ba nhà đạo sĩ đã nhận ra một sứ mệnh. Họ lên đường để đi theo ánh sáng sao tìm Vua Do Thái mới sinh.

    Họ nhận sứ mệnh này là sự thúc đẩy của Thánh Linh để rồi từ phương Đông xa xăm, họ tiến về tìm thờ lạy Chúa Cứu Thế. Chính cuộc ra đi của họ đã cho chúng ta thấy một tầm mức cứu độ muôn dân của Đức Giêsu. Ơn cứu độ không chỉ đến cho người Do Thái nhưng là ơn cứu độ Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân. Ba vua đại diện đến để thờ lạy Chúa mang theo những lễ vật đặc trưng:

    - Vàng: Biểu hiện của lòng kính mến...;

    - Mộc dược: Biểu hiện những hy sinh, những đau khổ đắng đót trong cuộc đời;

    - Nhũ hương: Biểu hiện cho những lời nguyện cầu bay lên trước thiên nhan Chúa.

    Dẫu đường xa, vất vả, nhưng ba nhà đạo sĩ đã đi theo tiếng gọi của trái tim và không thiếu những thử thách. Đã đến nơi rồi, ngôi sao còn biến mất. Tuy nhiên, chúng ta thấy, ánh sáng sao không bị dập tắt trong lòng của họ. Bởi vì, hàng triệu triệu người có thể nhìn thấy ánh sáng sao nhưng chỉ có ba nhà đạo sĩ lên đường. Ánh sáng bên ngoài có thể tắt đi nhưng ánh sáng ở trong tâm hồn ba nhà đạo sĩ vẫn sáng và đó chính là lý do tại sao họ không dừng bước. Ba nhà đạo sĩ tiếp tục vào đền của vua Herode để hỏi thăm tin tức về điềm lạ xem thế nào. Chính thái độ ấy là một thái độ nói lên sứ mệnh mà họ đang thi hành với tất cả lòng yêu mến. Ba nhà đạo sĩ này không phải tìm thấy Chúa nhờ sự chỉ vẽ của vua Herode, ngàn lần không, bởi lẽ ánh sáng sao lại tiếp tục xuất hiện dẫn họ mãi tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi sinh ra. Ở nơi đây là điểm giao thoa giữa trời và đất. Ba nhà đạo sĩ vui mừng khôn xiết, họ dâng lên những lễ vật của lòng chân thành.

    Chúng ta không thấy ba nhà đạo sĩ xin một ơn gì hết, họ đặt lễ vật, họ thờ lạy Chúa, họ hớn hở hân hoan ra về, họ muốn đưa tin cho cả vua Herode. Nhưng hai thái cực khác nhau dẫn đến hai kết quả khác nhau:

    Thái cực thứ nhất: Ba đạo sĩ chân thành tìm gặp Chúa thì gặp được Chúa, họ muốn đưa tin cho vua Herode thì được sứ thần báo mộng cho ba đạo sĩ tìm lối khác để v ề;

    Thái cực thứ hai: Vua Herode với mưu tính toán để giết Chúa thì được sứ thần báo mộng cho ba đạo sĩ tìm lối khác mà về, để mặc cho vua Herode lồng lộn trong thất bại mưu mẹo của mình. Không những thế khi Hài Nhi Giêsu được thánh cả Giuse và Đức Trinh Nữ Maria bồng sang đất nước Ai Cập thì vua Herode cũng chẳng tồn tại lâu. Bốn năm sau đó vua Herode đã băng hà, đúng là:

    Vua đã giết hết trẻ rồi
    Chỉ duy Con Đức Chúa Trời là không
    Chính Chúa Hài Đồng hiển thắng
    Vua băng hà cay đắng thảm thê
    Bệnh tình dằn vặt gớm ghê
    Lương tâm cắn rứt trăm bề đớn đau.

    (Bệnh của vua đau đớn dứt ra từng mảng thịt mà chẳng chết được. Rồi khi vua chết thì Chúa Hài Đồng lại chiến thắng trở về).

    Chúng ta thấy ở đây hai thái cực khác hẳn nhau. Cũng là đi tìm Chúa nhưng với sứ mệnh đi tìm để thờ lạy, ba nhà đạo sĩ đã gặp. Còn vua Herode huy động cả quân quốc đi tìm, tìm để giết, cuối cùng đã chết thật nhưng là vua chết chứ Hài Nhi Giêsu sống và sống muôn đời. Chính vì vậy chúng ta họ được ở nơi ba nhà đạo sĩ bài học của niềm tin. Ba nhà đạo sĩ đã cho chúng ta một sứ mệnh để đi tìm Chúa. Sau này đã có người nhọc công tìm hiểu xem vào thời điểm ấy có ngôi sao chổi hiện trên bầu trời không? Có người nhọc công tìm hiểu xem phép lạ ấy diễn ra như thế nào? Chúng ta sớm nhận ra rằng: Tất cả những điều đó là để trao cho ba nhà đạo sĩ một sứ mệnh mà các ông đã nhận ra và mau mắn lên đường.

    Nếu hôm nay chúng ta biết nhận ra sứ mệnh được trao ban cho mình thì ánh sáng ấy vẫn còn, ánh sáng ấy không bị tắt trên bầu trời. Và ánh sáng ấy được ánh lên từ trong cõi lòng của chúng ta. Đi theo ánh sáng, chúng ta gặp được Chúa. Còn bóng đêm sẽ chôn vùi chúng ta trong sự chết. Nếu chúng ta muốn gặp ánh sáng ấy thì thánh Gioan đã mô tả: “Ánh sáng đã đến trong thế gian và Ngôi Lời chính là sự sáng” (Ga 1,9). Như chúng ta thấy Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta là ánh sáng đã đến trong thế gian, ai đi theo Ta sẽ không đi trong tối tăm nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga 12,46). Những người biệt phái Pharisiêu vẫn cố tình khước từ. Họ không nhận Đức Giêsu là ánh sáng, họ cố tình lập mưu và bắt giết Chúa Giêsu. Cho nên ở thời đại nào cũng có những người đứng dạy đi theo sứ mệnh, lên đường tìm Chúa. Và ở thời đại nào cũng có những người đang đứng lại cố tình ngã gục xuống trong bóng tối của sự tội, sự chết. Vì vậy cuộc chiến đấu giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng lạ xuất hiện giữa một thế giới đầy sôi động và đầy những ích kỷ vẫn đang tiếp tục diễn ra trong thời đại của chúng ta. Điều quan trọng là người ta có xác định tiếng gọi để lên đường hay không?

    Mỗi ngày Giáo Hội mời gọi chúng ta: “Hãy nâng tâm hồn lên”, và Giáo Hội chúc cho chúng ta: “Anh chị em hãy lên đường bình an”. Ước gì chúng ta cũng nhận được sứ mệnh đó trong thánh lễ mỗi ngày để rồi coi việc chúng ta đi về gia đình, đi vào cuộc sống là mỗi hiệu lệnh lên đường, tiếp tục tìm thờ lạy Chúa. Việc nhận biết Chúa và thờ lạy Chúa là một ân huệ quá lớn lao. Chúng ta không phải xin thêm ơn gì khác. Cho nên ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy và hân hoan trở về thì chúng ta cũng thế. Được nhận biết Chúa là một hạnh phúc, là một mục đích, là ý nghĩa của sự sống, là phần thưởng đời đời. Do đó, ước gì mỗi ngày chúng ta cũng lên đường để gặp Chúa và đem Chúa đến cho người khác. Các mục tử đã làm như vậy, ba nhà đạo sĩ đã làm như vậy. Các tông đồ đoàn đã làm như thế. Còn đến lượt chúng ta hôm nay có làm được như thế hay không? Đấy mới chính là ý nghĩa của lễ Hiển Linh, Chúa tỏ mình ra cho chúng ta nhưng chúng ta có đón nhận hay không lại là chuyện khác.

    Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng,

    Một trẻ thơ nhỏ bé
    nhưng đã trở nên trung tâm của mầu nhiệm cứu độ.
    Chúa im lặng không nói gì
    nhưng đã làm huyên náo cả thế giới.
    Trong những tiếng huyên náo ấy
    chúng con nhận ra có những tiếng huyên náo của căm thù
    những tiếng huyên náo của ghen ghét
    như Herode tìm giết Chúa.
    Có những tiếng của ngựa xe lên đường đi tìm Chúa
    như ba nhà đạo sĩ tốt lành.
    Có những tiếng vui mừng của mục tử
    được nghe tiếng Thiên thần
    tìm đến thờ lạy Chúa.
    Xin đừng để ai trong chúng con
    chìm mãi vào bóng đêm của ích kỷ,
    giận hờn và tội lỗi
    nhưng hòa nhập vào trong đoàn của ba nhà đạo sĩ,
    đoàn của các mục tử.
    Ước gì chúng con tìm thấy ánh sáng chiếu soi cho muôn dân
    và trong ánh sáng ấy
    chúng con được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Amen.

    LM. Phêrô Hồng Phúc
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  6. #6
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH

    MÓN QUÀ CỦA ARTABAN



    Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề The Other Wise Man (Một nhà đạo sĩ khác), kể về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Ấu vương. Thế nhưng trên đường đến gặp 3 vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng, ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc là Artaban đã trở nên già nua nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.


    Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính báo cho ông biết đây chính là vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt Artanban cảm thấy trái tim như bị tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artanban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:


    "Này Artanban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ Ta. Khi Ta đói ông đã cho Ta ăn, Ta khát, ông đã cho ta uống, Ta trần trụi ông đã cho Ta mặc, Ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà".


    Câu chuyện về Artanban cũng là câu chuyện của nhiều người thời đại này. Giống như Artanban, khi bắt đầu vào đời, nhiều người cũng đã từng mơ ước làm được một điều gì cao cả. Nhưng thời gian trôi qua, những hoàn cảnh dồn dập xảy đến vượt quá khả năng kiếm soát của họ khiến họ không thực hiện được những giấc mơ của mình, để rồi cuối cùng những ước mơ ấy tan biến đi. Chẳng hạn như một thiếu nữ đã từng mơ ước đi theo nghề thương mại hoặc mỹ thuật, nhưng trước khi bắt đầu nghề nghiệp của mình thì cô lại gặp và lấy một người đàn ông nào đó. Chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu cuộc sống gia đình, thế là mộng ước của thiếu phụ ấy dần dần nhạt mờ giống như trường hợp của Artanban. Thiếu phụ ấy cuối cùng chỉ còn biết dâng trọn thời giờ cho cái gia đình trẻ trung của mình.


    Câu chuyện này có thể kết thúc ở đây, và nếu thế, đây là một câu chuyện đáng buồn, vì nó kể chuyện một phụ nữ chưa bao giờ thực hiện được hoài bão lớn lao của đời mình. Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó chỉ kết thúc vào một ngày trong tương lai, khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ điều Ngài đã nói với Artanban: "Suốt đời con đã giúp đỡ Ta; điều gì con làm cho gia đình con, chính là con làm cho Ta".


    Hoặc chúng ta hãy xét đến trường hợp một thanh nhiên có tài. Chàng mơ ước leo lên được địa vị cao trong công ty của chàng. Vì thế chàng làm việc chăm chỉ và hy sinh mọi thứ. Thế nhưng đột nhiên xảy ra sự cố trục trặc gây cản trở bước tiến của chàng dù chàng chẳng hề lầm lỗi chi, đó chẳng qua là việc xui xẻo mà thôi. Tuy vậy, chàng thanh niên vẫn tiếp tục sống lương thiện, làm việc chăm chỉ và trung tín. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây là một chuyện buồn, vì nó đề cập đến một chàng trai không bao giờ thực hiện được giấc mộng to tát của đời mình. Thế nhưng câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó sẽ chỉ kết thúc vào lúc Chúa Giêsu nói với chàng ta điều mà Ngài đã nói với Artanban: "Suốt đời con đã giúp đỡ Ta, vì điều gì con đã làm một cách lương thiện và trung tín, tức là con đã làm cho Ta".


    Ngoài ra ta còn có thể nêu ra một câu chuyện có thực về một thanh niên tên là Tony. Chàng du lịch khắp thế giới và xuất hiện thường xuyên trên sân khấu lẫn truyền hình với tư cách là tay trống trong một nhóm ca nhạc nổi tiếng khắp thế giới. Rồi một ngày nọ, Tony cảm thấy được Chúa gọi làm linh mục. Khi chàng rời bỏ nhóm ca nhạc để vào chủng viện. Nhiều người cho rằng chàng là kẻ điên khùng. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu như vậy thì đây là một câu chuyện buồn về một gã thanh niên để cho mộng ước vuột khỏi tầm tay mình. Tuy nhiên câu chuyện không kết thúc ở đây. Hiện Tony đang làm linh mục tại gíao phận Dallas. Chàng sống rất hạnh phúc. Một ngày kia, Chúa Giêsu cũng sẽ nói với chàng như đã từng nói với Artanban: "Hỡi Tony, suốt đời con đã giúp đỡ Ta, điều gì con làm cho giáo dân trong xứ, chính là con đã làm cho Ta".


    Như thế, Lễ Ba Vua nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị vua các Vua. Và câu chuyện "Một nhà đạo sĩ khác" (The Other wise Man) nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của Ba Vua, bởi vì món quà chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, như nhũ hương, mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artanban: "Hãy đến đây, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta. Vì bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn này…. của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25: 34-35-40).


    Chúng ta hãy kết thúc với lời "nguyện xin lòng quảng đại" của thánh Ignatio de Loyola:


    Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phục vụ Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không hề tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đã thi hành Thánh Ý Chúa. Amen".
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  7. #7
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH


    LỜI MỜI GỌI CỦA LỄ HIỂN LINH



    Ngày 25 tháng 2 năm 1758, một trong những kẻ thù ghét Kitô giáo nhất là Voltaire, đã viết cho người bạn của ông là dAlembert: “Hai mươi năm nữa thì Thiên Chúa sẽ tiêu tàn.”

    Đúng hai mươi năm sau, ngày 25 tháng 2, 1778, bác sỹ của Voltaire cho ông biết là bệng tình của ông hoàn toàn tuyệt vọng. Voltaire xin gọi linh mục đến. Nhưng những người chăm sóc cho ông toàn là những người chống đạo; họ đã không làm theo lời yêu cầu của ông. Ông đã kêu rú lên và tắt thở.

    Nếu bạn đến thăm biệt thự Frederick đệ Nhất ngoại ô Berlin, bạn sẽ thấy căn phòng của Voltaire. Đây là một con người đã dùng những ngày đẹp nhất của đời mình trong nỗ lực chứng minh là không có Thiên Chúa. Bạn sẽ thấy những di tích ông để lại trong phòng. Bạn có thể đặt câu hỏi, ông ta sẽ nói gì giả như bây giờ ông ta có thể nói thêm một điều từ chiếc ghế cũ trong căn phòng đó.

    Rồi bạn qua Paris và nhìn xem căn nhà mà một thời con người bất trung đó đã sống. Không còn dấu tích gì nhớ đến Voltaire. Khi còn sống Voltaire đã tiên đoán là sau một trăm năm nữa thì sách Kinh Thánh sẽ không còn tồn tại. Căn nhà đó bây giờ chất đầy những cuốn sách Kinh Thánh. Còn Voltaire đã biến mất khỏi mặt đất này (Treasury of Catechism Stories #15).

    Mỗi người chúng ta được trao ban một cuộc sống. Mọi người Công Giáo đều học biết là mục đích của đời sống mỗi người là nhận biết, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa và phục vụ nhau ở đời này và được hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Giáo lý Công Giáo số 49 xác nhận, “Tạo vật không có Đấng Tạo Hóa sẽ tàn lụi. Bởi vậy các tín hữu thấy mình bị thúc bách bởi tình yêu Chúa Kitô hãy mang ánh sáng của Thiên Chúa hằng sống đến cho những người không biết Ngài hoặc từ chối Ngài.”

    Khi mừng Lễ Hiển Linh Giáo Hội kêu mời chúng ta chiêm ngắm, nhìn nhận và tôn thờ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài đến để soi dẫn chúng ta cùng hành trình với Ngài trên con đường dẫn đế sự sống đời đời với Thiên Chúa.

    Ý Nghĩa Hiển Linh
    Tiên tri Isaiah trong bài đọc thứ nhất công bố rằng Thiên Chúa sẽ xuất hiện cách rõ ràng sáng tỏ. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ xuất hiện và chư dân sẽ tìm về sự sáng. Tất cả sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa. Bài trích thư gởi tín hữu Ephêsô trong bài đọc hai xác nhận rằng những lời tiên tri và mặc khải của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Ngài là nguyên nhân cho sự đoàn kết hợp nhất của mọi dân tộc. Bài Phúc âm kể lại câu truyện ba nhà Đạo sỹ từ Đông phương nhận ra ngôi sao lạ, và họ đã tìm đến Giêrusalem hỏi thăm, "Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?" Họ đã tìm đến để thờ lạy tôn phục và dâng lên Người lễ vật của họ bởi vì họ đã lâu ngày dầy công tìm hiểu và họ nhận ra danh tánh của Hài Nhi Giêsu nơi Bethlehem là ai.

    Thiên Chúa Hiện Diện
    Văn hóa thời xưa nhận ra Thiên Chúa và quyền lực của Ngài qua thiên nhiên, nơi bão gió, sắm sét, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sao trời, cây cối cổ thụ, sông núi biển khơi. Nhiều nơi tôn thờ thần núi, thần sông, thần cây, thần cá, thần đá. . . Những người Hy Lạp và La mã cổ xưa tìm Thiên Chúa qua những huyền bí và những giấc mơ thần tiên. Văn hóa Đông phương tìm Thiên Chúa qua năng lực của tâm lý linh thiêng nơi con người, và qua vận mệnh tướng số. Người Do Thái tôn thờ một Thiên Chúa qua lịch sử của dân tộc. Và từ Do Thái Giáo, Kitô giáo trở nên một tôn giáo có đặc tính riêng tin tưởng rằng Thiên Chúa đã bày tỏ chính Ngài qua việc Đức Giêsu Kitô sinh hạ làm người. Qua nhiều thời đại, con người đã suy nghĩ tìm hiểu lý do và ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng Mầu nhiệm Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế làm người chỉ có thể hiểu được qua lăng kính tình yêu. Đức Giêsu Kitô là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài thương yêu nhân loại và Ngài xuống thế làm người để cứu nhân loại.

    Thấy Hài Nhi
    Khi những nhà đạo sỹ đến Bethlehem và nhìn thấy Hài Nhi Giêsu, chắc hẳn họ đã không nhìn thấy một em bé có hào quang lộng lẫy và ánh sáng tỏa chiếu khác thường để nói cho họ biết đó là Vua trời đất và là Con Thiên Chúa. Trái lại bằng con mắt nhân loại, họ cũng chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng như một em bé đơn sơ yếu đuối, bọc trong khăn nằm trong máng cỏ. Họ chỉ nhận ra Hài nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là ánh sáng thế gian nhờ con mắt của đức tin.

    Chúng ta có liên hệ gần gũi thật đẹp với những nhà Đạo Sỹ. Chúng ta là những người ở các thế hệ sau vẫn tiếp tục trong cuộc hành trình đức tin đi tìm gặp Đấng Cứu thế. Từ đâu đó lóe lên trong chúng ta một sự hiểu biết và một ước muốn đi tìm chân lý. Chúng ta cũng là những người đang nhìn và bước đi trong ánh sáng đức tin trong mọi nẻo đường của cuộc đời, khi vui cũng như khi buồn, khi cô đơn đau khổ cũng như lúc hạnh phúc vui tươi; khi thành công cũng như lúc thất bại; khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau. Kitô hữu là những nhà đạo sỹ, những người khôn ngoan của thời đại đi tìm gặp Đấng Cứu Thế và làm sáng tỏ sự hiện diện của Ngài trong thế giới. Chúng ta có vai trò phải đóng và nghĩa vụ phải chu toàn; đó là làm sáng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi nẻo đường của cuộc sống bằng cách luôn biết tìm hiểu và đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa cần sự cộng tác của chúng ta để tiếp tục công việc của Ngài. Thêm vào đó, những nhà Đạo Sỹ khôn ngoan đã không đến gặp Chúa với đôi bàn tay trống rỗng, nhưng họ đã đến với những lễ vật đặc biệt quý giá biểu tượng cho sự dấn thân và quy phục của họ đối với Con Thiên Chúa. Chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa lễ vật bằng sự dấn thân hy sinh của chính chúng ta và những sản vật do tay chân và công sức của chúng ta để nói lên sự quy phục đối với Đức Kitô Đấng Cứu Thế của chúng ta.

    Ngày đầu năm, sau khi dâng lễ kính Mẹ Thiên Chúa và trở về nhà xứ, tôi mở cửa bước vào thì chợt nhìn thấy một phong thư để ngay trên cửa. Mở phong thư ra tôi vui mừng và ngạc nhiên nhận được một ngân phiếu của một gia đình với hàng chữ, “Thưa cha, gia đình chúng con xin dâng $10,000 vào qũy xây cất thánh đường.” Tôi đã âm thầm cảm tạ Thiên Chúa và cảm phục lòng tin và tinh thần hy sinh quảng đại của người giáo dân. Tôi cũng phải tự xét mình xem tôi đã và đang dâng những gì cho Thiên Chúa và cho Giáo Hội của Ngài?

    Lời Mời Gọi của Lễ Hiển Linh
    Do đó, Lễ Hiển Linh không phải là chỉ là lễ nói lên tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại mà thôi; trái lại lễ Hiển Linh cũng còn là một lời mời gọi chúng ta đến với Thiên Chúa để bái phục Ngài. Đến với Thiên Chúa để dâng lên Ngài những lễ vật của đời chúng ta. Lễ hiển linh cũng mời gọi chúng ta ra đi mang tin mừng và chiếu tỏa tình yêu của Thiên Chúa cho thế giới. Là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em của Đức Giêsu, chúng ta được kêu gọi trở nên chính sự bày tỏ của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu. Do đó bằng một cách nào đó, tất cả mọi tình yêu đều bày tỏ Thiên Chúa. Đây chính là lý do và ý nghĩa làm Kitô hữu: Bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa qua việc chúng ta dấn thân quyết tâm sống yêu thương. Thiên Chúa vẫn luôn luôn vô hình cho tới khi được chúng ta bày tỏ Ngài qua những cử chỉ và lối sống yêu thương của chúng ta đối với nhau.

    L. M. Gioan Trần Khả
    Houston, TX
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  8. #8
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH


    Lễ Hiển Linh - Năm A
    GỌI TÊN NGÀY LỄ




    ĐGM Vũ Duy Thống
    Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?”.

    Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.

    Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.

    1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”…

    Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày lễ.

    Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.

    Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin. Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!

    Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.

    2) … Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”…

    Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.

    Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì “Hiển Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.

    Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.

    Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa. Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai). Hiển Linh chính là tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn mùa gặp gỡ.

    3) … Để dẫn tới sứ điệp đời sống.

    “Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.

    Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?

    Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát. Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.

    Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.

    Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm. Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua. Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  9. #9
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH

    NGÔI SAO ĐỨC TIN










    Lm Giuse Vũ Thái Hòa
    Khi đọc bài Tin mừng hôm nay theo thánh Matthêu về “lễ Ba Vua” (ba thánh sử khác không tường trình biến cố này), chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về “các nhà chiêm tinh”! Ngày xưa ở Trung Đông, nhất là tại Ba-tư, các vị chiêm tinh, hoặc đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại đặt tên cho họ: Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ thứ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho toàn nhân loại, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.

    Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân Số: “Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp (nhà Đavít), một vương trượng (vua) trổi dậy từ Ít-ra-en”(24:17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để đến thờ lạy người.

    Khi đến Giê-ru-sa-lem là thủ đô Do-thái, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của tân vương. Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, hỏi tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân, và được biết Đấng Kitô sinh ra ở Bêlem dựa theo lời tiên báo trong sách Mi-kha: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời” (5:1). Hài Nhi mới sinh ra chính là vị Cứu Tinh (Mê-si-a) mà Ít-ra-en đã mong chờ từ lâu.

    Khi tìm được Vua Hài Nhi, họ sấp mình bái lạy Người và dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba lễ vật tượng trưng: vàng nói rằng Người là vua, vì vàng là kim loại quý dùng để dâng cho vua; nhũ hương nói rằng Người là Thiên Chúa vì người ta xông hương để tôn kính các thần thánh; mộc dược, hương liệu được dùng để liệm người chết, nói lên nhân tính của Người. Các Kitô hữu nhìn nhận nơi Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai được mong đợi (vàng), Con Thiên Chúa (nhũ hương), Đấng hiến dâng mạng sống trên thập giá (mộc dược).

    Các vị chiêm tinh này đại diện cho các dân ngoại đã nhìn nhận vương quyền của Hài Nhi ngay từ lúc Người mới chào đời. Họ cũng đại diện cho những người thành tâm thiện chí tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa. Với những bước dọ dẫm và với sự kiên trì, cuối cùng họ đã gặp được Thiên Chúa và dâng cho Người những thứ quý giá nhất.

    Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy dùng ít phút để suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, vược xa trí tưởng tượng của con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Nhưng Con Thiên Chúa ở trong một máng cỏ nghèo nàn. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người không phải qua bề ngoài nghèo hèn bằng con mắt nhân loại, nhưng bằng con mắt đức tin.

    Cách đây 2000 năm nay, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ. Từ đó, Người muốn mỗi người chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh (“Các con là ánh sáng cho trần gian” -Mt 5:14) để dẩn dắt tha nhân đến với Thiên Chúa, như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2:15)

    Uớc gì mỗi người chúng ta là một ngôi sao đức tin, được chiếu tỏa bởi tình thương và bác ái trong đời sống thường nhật của chúng ta.

    NS Dân Chúa Âu Châu
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

  10. #10
    Join Date
    Sep 2007
    Location
    france
    Posts
    22,358
    Thanks
    1,626
    Thanked 4,571 Times in 3,650 Posts

    Default Re: CHÚA HIỂN LINH

    LỄ VẬT LÒNG THÀNH








    Lm VIKINI
    Các đạo sĩ là ai ?

    Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người phương Tây. Phương Tây tìm Chúa để chiếm hữu Chúa như họ chiếm hữu vùng đất mới sau bao nhiêu cuộc mạo hiểm. Họ chiếm hữu để thỏa mãn lòng tham giàu có, danh vọng. Người Do thái cũng như người phương Tây. Họ cầu mong Đấng Cứu Thế đến để thỏa mãn nguyện vọng bá chủ thiên hạ, làm cho dân Israel chiến thắng vinh quang, cho “Giêrusalem bừng sáng lên, cho nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, cho của cải muôn dân nước sẽ đến với ngươi, cho lạc đà từng đàn che rợp đất từ Madian, Êpha, Saba, hết thảy kéo đến mang theo vàng với trầm hương đổ vào nước ngươi” (Is. 60, 1-6).

    Người phương Đông tìm Chúa, không để chiếm hữu Ngài, Ngài là Đấng tối cao, chí linh, chí thánh, vô biên. Họ kính Ngài ngự chốn rất cao xa. “Kính nhi viễn chi”. Họ biết mình thân phận thụ tạo hèn mọn, không dám gần Ngài. Dù là kẻ phàm trần được Ngài cho làm vua, mệnh danh là thiên tử. Họ cũng không dám ngẩng mặt nhìn dung nhan ông vua của họ. Huống chi là Thượng Đế chí tôn. Vậy họ tìm Chúa làm gì? Họ tìm Chúa, thực ra là để tìm thiên mệnh, là thánh ý Chúa. Qua tri thiên mệnh, qua các hiện tượng của trời đất, các tinh tú, thời tiết, qua các tâm hồn thánh nhân, qua cuộc sống của hiền nhân quân tử, và nhất là qua lương tâm trong sáng của lòng họ : “Tri tâm tắc tri thiên” (Mạnh Tử. Tận tâm. Thượng 1). Cho nên, không biết thiên mệnh không đáng làm quân tử : “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử” (Luận Ngữ xx. 3). Không biết thánh ý Chúa, không thể làm con Chúa.

    Biết thánh ý Chúa là điều quan trọng nhất của người phương Đông để biết phép tắc của trời và sống đúng theo ý trời : “Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” – Trời có đạo lý rõ ràng, các loài phải thấy rõ mà theo (Kinh Thư. Thái hệ hạ 2).

    Khổng Tử sở dĩ trở thành “vạn thế sư biểu” và “Thánh chi thời” là nhờ ông lo tìm biết ý trời mãi tới năm mươi tuổi mới thấu được thiên mệnh, đến sáu mươi tuổi mới thuận theo được ý trời và tới bảy mươi tuổi tâm tưởng hoàn toàn không trái phép trời : “Ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ” (LN. II, 4).

    Chính Hài Nhi Giêsu khi đến thế gian đã thưa với Chúa Cha rằng : “Này con xin đến để làm theo tôn ý Cha”. Lúc lên 12 tuổi, Người cũng đã thưa với thân mẫu trần gian rằng : “Tại sao tìm con, con phải lo làm việc của Cha con đó” (Lc. 2, 49).

    Tri thiên mệnh, làm theo ý Chúa Cha đó là lễ vật lòng thành hoàn hảo nhất mà ba vua đem đến dâng tiến Chúa Giáng Sinh qua ba lễ vật hữu hình : vàng, nhũ hương và mộc dược.

    Vàng là kim loại óng ánh, rực rỡ, tinh ròng để trang sức cho trần gian, các ông dâng lên Ngài, làm ngai vàng cho Ngài ngự trị, tôn vinh Ngài làm vua trên hết các vua. Các vua còn muốn nó thay cho lòng mến nồng nhiệt, bền vững nhất gói ghém trọn vẹn cả tâm tư, trí khôn, ý chí, sức lực của chính các ông và muôn dân mà các ông là đại biểu cho họ hôm nay và mãi mãi.

    Nhũ hương : một thứ nhựa cây tầm thường, không mùi vị, nhưng khi đốt vào lửa hồng, nó tỏa hương thơm ngào ngạt, bay lên những làn khói trắng nhẹ nhàng. Các ông muốn nó thay cho mọi của cải trần gian từ nay chỉ được dùng tiến dâng tế lễ Ngài, không bao giờ để nó làm tôi đòi cho các thần tượng bất chính. Mọi sự do Ngài dựng nên, trao ban cho loài người, thì phải dùng để tôn thờ Thiên Chúa. Các ông còn ước ao những làn hương thơm đó ôm ấp những lời nguyện hèn mọn của các ông và của hết mọi người ở khắp nơi, bay tỏa lên trước tôn nhan Thiên Chúa, xin Ngài làm cho bao nhiêu nỗi âu lo, buồn phiền cay đắng, nhọc nhằn, khốn cực của nhân loại được trở nên dịu dàng, thơm tho, ngọt ngào trong lửa kính mến Ngài.

    Mộc dược là nước lấy từ thứ cây có vị đắng và thơm, để tắm gội, thanh tẩy và ướp xác khi khâm liệm. Ba vua dâng lễ vật này lên Hài Nhi đang nằm trong nơi hôi thối, để cảm tạ Ngài đã hy sinh giáng trần, thí mạng sống lấy máu thịt Ngài ướp lấy mạng sống của các ông và của cả nhân dân thế giới khỏi dòi bọ tội lỗi phá hủy, các ông dâng mộc dược còn tượng trưng sự hy sinh hãm mình của chính các ông đã ra sức thanh tẩy đầu óc mê tín dị đoan của các tà thần dân ngoại. Những cố gắng từ bỏ lối sống ham danh trục lợi, ăn chơi tội lỗi. Đặc biệt các ông dâng lên Ngài lòng biết ơn sâu xa của các ông mà Ngài đã ban cho các ông biết hy sinh lớn lao cho công cuộc nghiên cứu khoa học, tìm tới chân lý, nhất là Ngài đã dạy các ông biết thực thi bác ái, cứu giúp đồng bào.

    Đã từ lâu, Chúa Hài Nhi hằng mong chờ lễ vật lòng thành của tôi. Tôi đã có một chút lòng mến óng ánh như vàng, một chút kinh nguyện nồng nàn thâm trầm như hương thơm ngọt ngào, một chút hy sinh cay đắng như mộc dược dâng lên Ngài chưa ?

    Lạy Chúa, Người là tình yêu, Người yêu con vô bờ, chẳng cần chi thiên phúc, sống thân phận bần cùng đồng hàng với con hèn, cho con được đồng phận thiên phúc của Người. Lạy Chúa, con đền ơn trời biển làm sao ? Xin cho con biết hiến dâng cho Người : một con tim nồng ấm dạt dào thương mến như Người, một khối óc cởi mở đón nhận chân lý hằng sống của Người, một thân xác lành mạnh luôn luôn biết phụng sự các chi thể của Người.
    http://motgocpho.com/forums/image.php?u=45&type=sigpic&dateline=1327498393

Page 1 of 6 123456 LastLast

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •